Người dịch: Nguyễn Vũ Hiệp
Lời giới thiệu của dịch giả:
“Đối với tôi, nhà tư tưởng và nghiên cứu văn học này là một tác giả bắt buộc”. Phạm Thị Hoài viết vậy về Walter Benjamin trong một bài trên Talawas năm 2009. Là một trong những người đặt nền móng cho lý thuyết phê phán (critical theory), và là người nghiên cứu công nghiệp văn hóa từ trước khi nó được Adorno đặt tên, Benjamin là tác giả đáng đọc với bất cứ ai có chung mối quan tâm hay thấy mình mang nợ truyền thống này. Xa hơn, ông là một giao lộ giữa nhiều truyền thống, và là nơi người đọc tìm đến khi cần rẽ.
Được viết xong trong tháng 01/1940, không lâu trước khi tác giả tự sát vào tháng 9 để tránh rơi vào tay phát-xít Đức, “Về ý niệm lịch sử” là tiểu luận hoàn chỉnh cuối cùng của Walter Benjamin. Ba gương mặt của Benjamin – một người sưu tầm nghệ thuật, một nhà nghiên cứu thần học Do Thái và một học giả Marxist – sẽ gặp nhau trong tiểu luận này để hợp thành một tầm nhìn rộng hơn các ngõ cụt của thế kỷ.
Bức tranh “Angelus Novus” (Thiên thần Mới), một trong những nguồn cảm hứng của tiểu luận này, là một phần trong bộ sưu tập nghệ thuật và sách của Walter Benjamin. Ông mua nó từ Paul Klee, và để lại cho Gerherd Scholem sau khi mất.

I
Người ta từng chế tạo một người máy bách chiến bách thắng trong môn cờ vua, và biết đáp trả mỗi nước đi của đối thủ bằng một nước phản công. Đó là một con rối mặc y phục người Turk, miệng ngậm điếu shisha, ngồi đối diện ván cờ bày trên một chiếc bàn lớn. Một hệ thống gương đã tạo ảo giác rằng chiếc bàn này trong suốt, dù ta nhìn từ phía nào. Nhưng trong thực tế, một người gù nhỏ thó chuyên trị môn cờ vua đang nấp bên trong, và giật những sợi dây để điều khiển cánh tay con rối. Hãy tưởng tượng thiết bị này có một bản sao trong triết học. Con rối mang tên “duy vật luận lịch sử” (historical materialism) được chế tạo để đánh thắng luôn tay. Nó có thể đấu ngang sức với bất kỳ ai nếu biết tìm đến sự trợ giúp của thần học, kẻ mà ngày nay, như chúng ta biết, đã già nua và phải ẩn mình.
II
“Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của bản tính con người”, Lotze viết, “là, bên cạnh biết bao sự ích kỷ trong từng trường hợp cụ thể, hiện tại của họ không thèm ghen tị khi đối diện với tương lai”. Nhờ suy ngẫm, chúng ta biết rằng khoảng thời gian mà chặng đường tồn tại ban cho chúng ta sẽ nhào nặn toàn bộ hình dung của chúng ta về hạnh phúc. Kiểu hạnh phúc khiến ta ghen tị chỉ tồn tại trong bầu không khí mà ta từng hít thở, giữa những con người mà ta lẽ ra từng có cơ hội trò chuyện hoặc yêu đương. Nói cách khác, hình dung mà ta có về hạnh phúc gắn chặt, một cách không thể tách rời, với hình dung về sự cứu rỗi. Điều tương tự cũng đúng với cách ta nhìn về quá khứ – thứ mà lịch sử quan tâm. Quá khứ mang theo nó một chỉ dấu thời gian, qua đó nó được quy chiếu về sự cứu rỗi. Có một thỏa thuận bí mật giữa các thế hệ đã qua và thế hệ hôm nay. Sự xuất hiện của chúng ta trên trái đất đã được trông đợi. Cũng như mọi thế hệ đi trước, chúng ta được ban tặng một chút quyền lực Cứu Thế (Messianic) – một quyền lực mà quá khứ yêu cầu. Yêu cầu ấy không thể được thanh toán một cách rẻ mạt – duy vật luận lịch sử ý thức rõ điều đó.
III
Một sử gia thuộc làu mọi sự kiện mà không phân biệt chúng lớn hay nhỏ thì hành động theo chân lý sau: không gì từng xảy ra đáng bị lịch sử xem là đã mất. Chắc chắn, chỉ một nhân loại đã được cứu chuộc mới lĩnh nhận được trọn vẹn quá khứ của mình – nói cách khác, chỉ một nhân loại đã được cứu chuộc mới có thể trích dẫn quá khứ của mình rõ đến từng phút giây. Mỗi khoảnh khắc nó từng sống đều trở thành một trích dẫn có tính thời sự (à l’ordre du jour) – và ngày ấy là Ngày Phán Xét.
IV
“Hãy tìm kiếm cái ăn cái mặc trước,
rồi Vương quốc của Chúa sẽ được ban thêm cho ngươi”.
– Hegel, 1807
Cuộc đấu tranh giai cấp – thứ luôn là hiện tại trong mắt một sử gia Marxist – là cuộc chiến vì những điều thô tục và mang tính vật chất, mà nếu thiếu chúng sẽ không thể tồn tại cái gì tinh tế và mang tính tinh thần. Dù vậy, trong cuộc đấu tranh giai cấp, các giá trị tinh thần ấy không hiện diện như những chiến lợi phẩm rơi vào tay phe chiến thắng. Chúng hiện hình trong cuộc đấu tranh ấy dưới dạng lòng can đảm, óc hài hước, sự mưu trí, và sự kiên cường. Chúng, với hiệu lực hồi tố của mình, sẽ không ngừng thúc đẩy việc xét lại mọi chiến thắng, trong cả quá khứ lẫn hiện tại, của mọi bên thắng cuộc đang thống trị. Như những bông hoa quay về phía vầng dương, nhờ một tính hướng nhật bí ẩn, quá khứ gắng quay về hướng mặt trời mọc trên bầu trời lịch sử. Một nhà duy vật lịch sử phải nhận thức được điều này – kiểu biến đổi kín đáo nhất.
V
Hình ảnh chân thực của quá khứ chỉ thoáng vụt qua. Quá khứ chỉ có thể được nắm bắt như một hình ảnh lóe lên trong khoảnh khắc nó được người ta công nhận, và sẽ không bao giờ hiện lên lần nữa. “Chân lý sẽ không chạy khỏi chúng ta”: trong nhãn quan lịch sử của duy sử luận (historicism), câu nói này của Gottfried Keller đánh dấu đúng cái điểm mà duy sử luận bị duy vật luận lịch sử cắt xuyên qua. Bởi mọi hình ảnh của quá khứ không được hiện tại coi như một mối quan tâm đều đứng trước nguy cơ biến mất theo cách không thể cứu vãn. (Tin lành mà sử gia của quá khứ mang đến với trái tim đập rộn ràng có thể mất hút vào hư không ngay trong khoảnh khắc y mở miệng ra).
VI
Diễn đạt quá khứ theo lối lịch sử không có nghĩa là nhận biết nó “theo cách nó từng thật sự xảy ra” (Ranke). Mà là nắm bắt một ký ức khi nó vụt sáng lên trong một khoảnh khắc nguy hiểm. Duy vật luận lịch sử muốn giữ lại cái hình ảnh quá khứ từng bất ngờ hiện lên trong mắt con người được lịch sử chỉ định vào đúng khoảnh khắc nguy hiểm này. Nguy hiểm ấy đe dọa cả nội dung của truyền thống lẫn những người tiếp nhận nó. Cùng một nguy cơ treo lơ lửng trên cả hai: nguy cơ bị biến thành công cụ trong tay giai cấp thống trị. Mọi thời đại đều đòi hỏi nơi con người một nỗ lực mới để giành lại truyền thống từ tay cái chủ nghĩa tuân phục (conformism) đang chuẩn bị tiếm quyền nó. Đấng Cứu Thế không chỉ đến như một người cứu chuộc, mà còn đến như người đánh bại kẻ Ngụy-Kito. Chỉ một loại sử gia có khả năng khơi lại những tia hy vọng trong quá khứ: sử gia tin rằng đến người chết cũng không được an toàn nếu kẻ thù chiến thắng. Và kẻ thù ấy chưa bao giờ ngừng chiến thắng.
VII
“Hãy nghĩ đến bóng tối và cái lạnh buốt trong thung lũng này,
nơi bí ẩn đang vang vọng”.
– Brecht, “Vở Opera Ba Xu”
Với những sử gia muốn sống lại một thời đại, Fustel de Coulanges khuyên họ quên đi mọi thứ họ biết về tiến trình lịch sử sau này. Đây là cách tốt nhất để mô tả cái phương pháp mà duy vật luận lịch sử đã phá vỡ. Đó là một tiến trình thấu cảm bắt nguồn từ sự lười biếng của trái tim – acedia – thứ đã đánh mất hy vọng vào việc nắm bắt và giữ lấy hình ảnh lịch sử đích thực trong cái khoảnh khắc nó bùng lên. Trong thần học Trung Cổ, acedia được xem là căn nguyên của nỗi buồn. Flaubert, kẻ quen nó như người nhà, từng viết: “Peu de gens devineront combien il a fallu être triste pour ressusciter Carthage” (Ít ai đoán được người ta phải buồn đến mức nào mới có thể làm cho Carthage sống lại). Bản chất của nỗi buồn ấy sẽ hiện rõ hơn nếu ta tự hỏi: các nhà duy sử luận thực ra đang đồng cảm với ai? Câu trả lời không thể khác: với kẻ chiến thắng. Mà mọi kẻ cai trị đều là người thừa kế của những kẻ từng chiến thắng. Vì vậy, sự đồng cảm với kẻ chiến thắng không thể không làm lợi cho kẻ cai trị hiện nay. Các nhà duy vật luận lịch sử hiểu hàm ý của điều này. Bất cứ ai từng giành chiến thắng đều đang tiếp tục tham dự vào đám rước khải hoàn thời nay, nơi kẻ cai trị giẫm lên những người nằm phủ phục. Theo tập quán truyền thống, chiến lợi phẩm được mang theo trong đám rước. Chúng được gọi là kho tàng văn hóa, và một nhà duy vật lịch sử nhìn chúng với sự lãnh đạm cẩn trọng. Bởi vì, không có ngoại lệ, mọi kho tàng văn hóa mà y từng khảo sát đều có một nguồn gốc buộc y rùng mình mỗi khi nghĩ về. Chúng ra đời không chỉ nhờ nỗ lực của những tâm trí và tài năng vĩ đại đã sáng tạo chúng, mà còn nhờ những lao động cực nhọc vô danh của vô số con người cùng thời đại. Mọi tư liệu của nền văn minh đều đồng thời là tư liệu của sự dã man. Và khi tư liệu ấy không thoát khỏi sự dã man, sự dã man cũng làm vấy bẩn cái cách tư liệu được chuyền từ tay người chủ cũ sang người chủ mới. Vì vậy, nhà duy vật luận lịch sử cố gắng tách mình khỏi tư liệu ấy chừng nào y có thể. Tiếp xúc với lịch sử từ một hướng ngược đời – ấy là nhiệm vụ mà y tự giao cho bản thân.
VIII
Truyền thống của những người bị áp bức dạy chúng ta rằng “tình trạng khẩn cấp” mà ta đang sống không phải là ngoại lệ, mà là quy luật. Chúng ta cần đạt được một ý niệm về lịch sử phù hợp với nhận thức ấy. Khi đó, chúng ta sẽ hiểu rõ rằng mình có nhiệm vụ gây dựng một tình trạng khẩn cấp đích thực – điều sẽ cải thiện vị trí của chúng ta trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát-xít. Chủ nghĩa phát-xít nắm được cơ hội một phần vì, nhân danh tiến bộ, những người chống phát-xít lại coi nó như một chuẩn mực lịch sử. Không có tí triết nào trong phản ứng kinh ngạc của người thời nay – rằng chẳng hiểu sao những điều ta đang chứng kiến “vẫn còn” có thể xảy ra trong thế kỷ XX. Sự kinh ngạc ấy không tạo ra tí hiểu biết nào – trừ cái hiểu biết rằng quan điểm về lịch sử từng sinh ra nó đã không thể đứng vững.
IX
“Cánh tôi đã sẵn sàng bay,
nhưng tôi muốn quay lại.
Nếu tôi sống ngoài thời gian,
tôi sẽ không còn vận may.”
– Gerherd Scholem, “Gruss vom Angelus”
Một bức tranh của Klee, mang tên Angelus Novus (Thiên thần Mới), mô tả một thiên thần dường như sắp bay xa khỏi thứ mà y đang đăm đắm nhìn. Mắt y chằm chằm, miệng y há hốc, đôi cánh y dang. Đây là cách người ta khắc họa thiên thần lịch sử. Mặt y hướng về quá khứ. Nơi chúng ta thấy một chuỗi các sự kiện, thiên thần chỉ thấy một thảm họa duy nhất, thứ không ngừng chất đống những mảnh vỡ và ném chúng dưới chân y. Thiên thần muốn ở lại, đánh thức người chết dậy, và hàn gắn những gì đã bị nghiền nát. Nhưng một cơn bão Thiên Đường đã thổi tới, xốc lông vũ lên mạnh đến mức y không còn khép được cánh mình. Cơn bão bất khả khắng cự ấy thổi y đến tương lai mà y đang quay lưng, trong khi đống đổ nát trước mặt y cao chất lên cao tít tắp. Cơn bão ấy chính là thứ mà ta gọi là tiến bộ.

X
Những chủ đề mà kỷ luật tu viện giao cho các tu sĩ suy niệm được thiết kế để giúp họ tránh xa thế gian và những sự vụ của nó. Những suy tưởng mà chúng ta đang triển khai ở đây cũng khởi sinh từ những cân nhắc tương tự. Khi các chính trị gia mà phe chống phát-xít đặt hy vọng đang phủ phục xuống và xác nhận thất bại của mình bằng cách phản bội chính nghĩa họ theo đuổi, các quan sát này được viết ra để giúp những con người thuộc cõi phàm chính trị khỏi vướng vào cạm bẫy mà kẻ phản bội đã giăng ra. Lập luận của chúng ta xuất phát từ nhận thức rằng niềm tin ngoan cố của các chính khách vào tiến bộ, sự tự tin của họ rằng mình có “cơ sở đại chúng”, và cuối cùng, sự phụ thuộc đầy nô lệ tính của họ vào một guồng máy không thể kiểm soát – ấy chỉ là ba biểu hiện của cùng một điều. Nó gợi ý rằng để đạt đến một quan niệm về lịch sử khước từ mọi đồng lõa với lối suy nghĩ mà những chính trị gia kia đang tiếp tục trung thành, thói quen tư duy của chúng ta sẽ phải trả một giá đắt.
XI
Chủ nghĩa tuân phục – vốn là một phần không thể tách rời của khuynh hướng Dân chủ Xã hội ngay từ đầu – không chỉ gắn với chiến thuật chính trị, mà còn với quan điểm kinh tế của khuynh hướng này. Đó là một trong những nguyên nhân khiến nó sụp đổ. Không có gì làm suy đồi giai cấp công nhân Đức nhiều như quan niệm rằng họ đang di chuyển theo dòng chảy [của lịch sử]. Họ xem sự phát triển của công nghệ như thác nước đang cuốn họ trôi lên phía trước. Chỉ tiến thêm một bước từ điểm này, ta sẽ rơi vào ảo tưởng rằng công việc trong nhà máy – thứ được coi là thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ – cũng là một thành tựu chính trị. Thói cần lao của nền đạo đức Tin Lành ngày xưa đã được hồi sinh trong giai cấp công nhân Đức dưới một hình thức thế tục. Cương lĩnh Gotha[1] đã mang dấu vết của sự nhầm lẫn ấy khi định nghĩa lao động là “nguồn gốc của mọi của cải và mọi văn hóa”. Ngửi thấy mùi điêu, Marx đã phản bác rằng “…người không sở hữu tài sản gì ngoài sức lao động của mình” thì tất yếu sẽ trở thành “nô lệ của những kẻ tự phong là chủ sở hữu”. Nhưng sự nhầm lẫn ấy vẫn lan rộng, và chẳng bao lâu sau, Josef Dietzgen tuyên bố: “Đấng cứu thế của thời hiện đại chính là lao động. Đà tiến của lao động đã tạo ra nhiều của cải, thứ có thể thực hiện những kỳ tích mà chưa một đấng cứu thế nào từng làm nên. Quan niệm Marxist thô thiển này về bản chất của lao động đã hoàn toàn bỏ qua một câu hỏi: sao sản phẩm của lao động có thể mang lại lợi ích cho công nhân, khi chúng không hề thuộc quyền sử dụng của họ? Chỉ nhìn thấy tiến bộ trong khả năng làm chủ thiên nhiên mà không thấy sự thoái hóa của xã hội, quan niệm này đã mang những đặc điểm kỹ trị mà về sau sẽ gặp trong chủ nghĩa phát-xít. Một trong số đó là cái nhìn về thiên nhiên, nay đã khác một cách đáng lo ngại so với cái nhìn trong chủ nghĩa xã hội không tưởng trước cuộc cách mạng năm 1848. Quan niệm mới đã đi đến chỗ coi lao động như sự bóc lột thiên nhiên, thứ mà bằng sự tự mãn ngây thơ người ta cho là đối lập với sự bóc lột giai cấp vô sản. So với quan niệm thực chứng luận này, những huyễn tưởng của Fourier, vốn thường bị giễu cợt, lại trông uy tín đến mức đáng ngạc nhiên. Theo Fourier, hiệu quả của sự hợp tác trong lao động sẽ khiến bốn mặt trăng soi tỏ màn đêm hạ giới, khiến Bắc Cực và Nam Cực tan băng, khiến các sinh vật săn mồi nghe lời con người, và khiến nước biển hết mặn. Những lời này minh họa cho một hình thức lao động không bóc lột thiên nhiên, mà đỡ đẻ cho những sáng tạo đang nằm sẵn trong tử cung thiên nhiên dưới dạng các tiềm năng. Một thiên nhiên “có sẵn, miễn phí” trong cái nhìn của Dietzgen chính là mảnh ghép trong quan niệm suy đồi về lao động.
XII
“Chúng ta cần lịch sử, nhưng không cần nó theo cách của
một kẻ rong chơi chây lười trong khu vườn tri thức.”
– Nietzsche, “Về sự sử dụng và lạm dụng lịch sử”
Lịch sử không được lưu giữ trong một người hay mọi người, mà trong chính giai cấp bị áp bức đang đấu tranh. Trong Marx, giai cấp ấy hiện lên như là giai cấp cuối cùng bị nô dịch, như kẻ báo thù hoàn tất công cuộc giải phóng nhân danh bao thế hệ bị chà đạp. Niềm tin ấy, từng trỗi dậy trong thời gian ngắn ngủi của phong trào Spartacus[2], đã luôn bị phe Dân chủ Xã hội coi là chướng tai. Chỉ trong vòng ba thập kỷ, họ gần như đã xóa sạch cái tên Blanqui, dù đó từng là âm thanh hiệu triệu vang vọng suốt thế kỷ trước. Bằng cách giao cho giai cấp công nhân vai trò cứu rỗi các thế hệ tương lai, tư tưởng Dân chủ Xã hội đã cắt đứt gân cốt của sức mạnh lớn nhất nơi giai cấp này. Kiểu huấn luyện ấy đã khiến giai cấp công nhân quên mất lòng căm thù và tinh thần hy sinh, hai điều được nuôi dưỡng bởi hình ảnh của những tổ tiên bị nô dịch thay vì những con cháu đã được giải phóng.
XIII
“Lý tưởng của chúng ta ngày một sáng tỏ,
và nhân dân ngày một thông minh hơn.”
– Wilhelm Dietzgen, “Tôn giáo của Dân chủ Xã hội”
Lý thuyết của phe Dân chủ Xã hội, và hơn nữa là thực hành của nó, đã hình thành nhờ một quan niệm về sự tiến bộ vốn nằm rất xa hiện thực và rất gần giáo điều. Trong trí tưởng tượng của phe Dân chủ Xã hội, tiến bộ trước hết là tiến bộ của nhân loại nói chung (chứ không chỉ là đà tiến về năng lực hay tri thức của những con người cụ thể). Thứ hai, tiến bộ là cái gì đó không có ranh giới, tương xứng với khả năng tự hoàn thiện lớn đến vô tận của loài người. Thứ ba, tiến bộ là không thể cưỡng lại, nó tự động đi lên theo một con đường thẳng hay xoắn ốc. Mỗi khẳng định vừa nêu đều để hở sườn cho các đòn phê phán và đều gây tranh cãi. Dù vậy, vào thời khắc quyết định, sự phê phán phải nhìn xuyên cả ba khẳng định vừa nêu để nhắm vào một điểm chung của cả ba. Ý niệm về tiến bộ lịch sử của nhân loại không thể tách rời ý niệm về sự tiến bộ của nhân loại trong một dạng thời gian đồng chất và rỗng không. Sự phê phán nhắm đến ý niệm này phải là nền tảng cho mọi sự phê phán bản thân ý niệm “tiến bộ”.
XIV
“Khởi đầu là mục đích”.
– Karl Kraus, “Worte in Versen”, Tập 1
Lịch sử là chủ ngữ của một cấu trúc không diễn ra trong thời gian đồng chất, rỗng không, mà diễn ra trong thời gian được lấp đầy bởi sự hiện diện của cái bây giờ [Jetztzeit][3]. Với Robespierre, La Mã cổ đại là một quá khứ chất chứa cái bây giờ mà ông đã kích nổ cho văng khỏi dòng liên tục của lịch sử. Cách mạng Pháp tự nhìn mình như hiện thân của [nền Cộng hòa] La Mã. Nó gọi hồn La Mã cổ đại theo cách một mốt thời trang mới nhất gọi hồn các trang phục của quá khứ xa xôi. Thời trang có tài đánh hơi các tiêu điểm thời sự, dù tiêu điểm ấy đang cựa quậy trong những bụi rậm nào của quá khứ xa xôi. Nó là cú nhảy của con hổ về quá khứ. Dù vậy, cú nhảy ấy diễn ra dưới mái che của một đấu trường thuộc quyền cai quản của giai cấp thống trị. Nếu cú nhảy ấy diễn ra ngoài trời, tức trong lịch sử, nó sẽ là một cú nhảy biện chứng – thứ đồng nghĩa với cách mạng theo lối Marx hiểu.
XV
Ý thức rằng mình sắp làm nổ tung tính liên tục của lịch sử là điểm đặc trưng của các giai cấp cách mạng vào thời khắc họ hành động. Cuộc cách mạng vĩ đại giới thiệu một thứ lịch mới. Ngày khởi phát của quyển lịch giữ vai trò như một thước phim tua lại toàn bộ lịch sử ở tốc độ cao. Và về cơ bản, chính ngày ấy sẽ được định kỳ tua lại sau này dưới hình thức các ngày lễ, thứ vốn là ngày được dùng cho tưởng niệm. Vì vậy, lịch không đo thời gian như đồng hồ; chúng là những tượng đài của ý thức lịch sử – thứ đã biệt tích ở Châu Âu suốt một trăm năm qua. Trong cuộc Cách mạng tháng Bảy, đã xảy ra một sự biến cho thấy ý thức ấy còn sống. Ngay buổi tối giao tranh đầu tiên, các tháp đồng hồ bỗng bị bắn phá cùng lúc và độc lập ở nhiều địa điểm khác nhau trên khắp Paris. Một nhân chứng, dường như được vần điệu ban cho tài thấu thị, đã viết như sau:
“Ồ! Mặt trời đứng im trên Paris
Ai dám tin! Họ nói: Bực bội vì
thời gian; những Joshua mới đã
bắn đồng hồ để ngày không trôi đi.”

Phim kể về Damiel, một thiên thần quan sát con người ở Berlin, thành phố bị chia cắt trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
XVI
Không thể làm công việc của nhà duy vật luận lịch sử khi chưa nắm ý niệm về một hiện tại không phải là chuyển tiếp, mà là nơi thời gian đứng yên và dừng hẳn lại. Chính ý niệm này định nghĩa hiện tại nơi y trú trong để viết sử. Duy sử luận trao cho ta một hình ảnh “vĩnh cửu” của quá khứ; duy vật luận lịch sử lại cung cấp một trải nghiệm độc nhất vô nhị với quá khứ. Nhà duy vật luận lịch sử để mặc kẻ khác bước vào nhà chứa của duy sử luận và lãng phí sinh lực cho dịch vụ mại dâm mang tên “Ngày xửa ngày xưa”. Còn y giữ quyền kiểm soát sinh lực mình, giữ nó đủ mạnh để kích nổ tính liên tục của lịch sử.
XVII
Duy sử luận quả thực đã đạt đến đỉnh cao trong cái gọi là lịch sử phổ quát. Sử học duy vật dùng phương pháp khác hẳn duy sử luận, theo lối rõ ràng hơn khoảng cách giữa nó với bất kỳ loại sử học nào khác. Lịch sử phổ quát không có khung xương. Phương pháp của nó là cộng gộp; nó tập hợp một khối dữ kiện khổng lồ để lấp đầy thứ thời gian đồng chất và trống rỗng. Sử học duy vật, ngược lại, dựa trên nguyên tắc cấu trúc. Tư duy của chúng ta không chỉ chứa dòng ý nghĩ tuôn không ngừng, mà còn chứa những thời khắc mà ý nghĩ dừng lại, đóng băng. Ở nơi tư duy bất ngờ dừng lại trong một cấu hình mang thai các căng thẳng, tư duy gây cho cấu hình ấy một cú shock, khiến nó kết tinh thành một monad [đơn tử]. Nhà duy vật luận lịch sử tiếp cận một chủ đề lịch sử chỉ khi y bắt gặp nó như một monad. Trong cấu trúc này, y nhận ra dấu hiệu của một sự đình chỉ thời gian mang tính Cứu Thế, hay nói cách khác, một cơ hội cách mạng trong cuộc chiến đấu vì quá khứ tôi đòi. Y nhận thức được điều đó để kích nổ một thời đại cụ thể ra khỏi dòng chảy đồng chất của lịch sử, kích nổ một đời người ra khỏi một thời đại, hoặc kích nổ một tác phẩm cụ thể ra khỏi một đời làm việc. Nhờ phương pháp này, toàn bộ tiến trình lịch sử được chắt lọc[4] trong một thời đại; một thời đại được chắt lọc trong một đời người; và một đời người được chắt lọc trong một tác phẩm. Trong trái tri thức lịch sử đang lớn dần, thời gian được lưu giữ dưới dạng một hạt giống quý giá nhưng không mùi vị.
XVIII
“So với lịch sử của sự sống hữu cơ trên Trái Đất”, một nhà sinh học hiện đại viết, “năm mươi ngàn năm ít ỏi của loài Homo sapiens chẳng khác gì hai giây cuối cùng của một ngày hai mươi bốn giờ. Trên thước đo này, lịch sử của nền văn minh nhân loại chỉ chiếm một phần năm của giây cuối cùng của giờ áp chót”. Hiện tại – thứ, dưới tư cách một mô hình của thời gian Cứu Thế, chứa trọn bộ lịch sử nhân loại trong một bản tóm tắt khổng lồ – trùng khớp một cách chính xác với tầm vóc mà lịch sử nhân loại có được trong vũ trụ.
A.
Duy sử luận tự thỏa mãn với việc thiết lập mối liên hệ nhân quả giữa các khoảnh khắc khác nhau trong lịch sử. Nhưng việc một sự kiện là nguyên nhân không đảm bảo rằng sự kiện đó có sử tính. Sử tính là danh hiệu được trao cho nó khi đã khuất, thông qua các sự kiện đôi khi cách nó cả ngàn năm. Một sử gia lấy ý này làm khởi điểm sẽ ngừng kể chuỗi sự kiện theo lối lần chuỗi tràng hat. Thay vào đó, y nắm bắt chòm sao [constellation] mà thời đại của y hợp nên với một thời đại cụ thể trước đó. Như vậy, y quan niệm hiện tại như một “cái bây giờ” bị các mảnh vụn của thời gian Cứu Thế chiếu xuyên qua.
B.
Các chiêm tinh gia – kẻ lục lọi thời gian để tìm cái tương lai nó chứa đựng sẵn – chắc chắn không trải nghiệm thời gian như một thứ đồng chất hay trống rỗng. Cách trải nghiệm của họ, và cách chúng ta trải nghiệm thời gian quá khứ thông qua hồi tưởng, vốn giống y nhau. Chúng ta biết rằng người Do Thái bị cấm khảo sát tương lai. Dù vậy, kinh Torah và những lời cầu nguyện hướng dẫn họ sống trong hồi tưởng. Chính điều đó đã lột bỏ ma lực của tương lai, thứ rù quến những người tìm đến bói toán.Tuy nhiên, trong mắt người Do Thái, tương lai không vì vậy mà biến thành một thời gian đồng chất, rông không. Bởi mỗi giây phút của thời gian đều là cánh cổng hẹp, nơi có thể mở ra cho Đấng Cứu Thế bước vào.
Nguyễn Vũ Hiệp dịch từ bản tiếng Anh
Chú thích:
[1]Đại hội Gotha năm 1875 nhằm hợp nhất hai đảng Xã hội Chủ nghĩa Đức, một trong số đó được lãnh đạo bởi Ferdinand Lassalle, đảng kia bởi Karl Marx và Wilhelm Liebknecht. Cương lĩnh hành động do Liebknecht và Lassalle soạn thảo đã bị Marx chỉ trích gay gắt từ London. Đọc những gì Marx viết trong “Phê phán Cương lĩnh Gotha”.
[2]Phong trào cánh tả, do Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg sáng lập vào đầu Thế chiến I để phản đối chính sách ủng hộ chiến tranh của đảng Xã hội Đức; sau đó bị sáp nhập vào Đảng Cộng sản.
[3]Benjamin dùng chữ “Jetztzeit” đặt trong ngoặc kép, để phân biệt nó với “Gegenwart” – từ chỉ hiện tại thông thường. Rõ ràng ông đang nghĩ đến khái niệm “nunc stans” trong triết học Plato và thần học.
[4]Benjamin dùng khái niệm “aufheben” của Hegel, một từ có ba nghĩa song song: “giữ lại”, “nâng lên”, và “hủy bỏ”.
Vui lòng dẫn nguồn cụ thể khi chia sẻ bài viết từ Artinsight. Khi sử dụng bài viết cho mục đích thương mại, liên hệ qua địa chỉ artinsight.vn@gmail.com.
Donate to Artinsght: Để Artinsight có thể xuất bản nội dung chất lượng, duy trì và phát triển bền vững, đóng góp nhiều giá trị, hãy donate cho chúng tôi tại đây: DONATE. Chân thành cảm ơn.
