Tìm hiểu về bức tranh Chùa Zōjō-ji ở Shiba
Tác giả: Aramis Tran
Nhiều năm về trước khi còn là một chàng thanh niên, lần đầu tiên tới Tokyo, tôi choáng ngợp trước những khung cảnh của thành phố. Rất nhiều nơi để xem, rất nhiều điều để nhớ. Một trong những hình ảnh làm tôi ấn tượng nhất là chiếc cửa tam quan bằng gỗ màu đỏ khổng lồ ở một địa danh nổi tiếng của Tokyo.
Vài năm sau, khi bắt đầu tìm hiểu về thế giới Ukiyo-e, tôi đã gặp lại công trình đó qua một bức tranh khắc gỗ. Lúc đó tôi mới biết rằng đó chính là cổng Sangedatsumon (三解脱門) cổng chính của ngôi Chùa Zōjō-ji. Đây là kiến trúc cổ nhất còn tồn tại của Tokyo. Được xây dựng năm 1622, cánh cổng gỗ màu đỏ này đã đứng vững qua những biến động lớn của lịch sử thành phố: hỏa hoạn, các đợt động đất và cả chiến tranh. Ngày nay, ngôi chùa này là một di sản văn hóa quan trọng của Tokyo và Nhật Bản.
Bức tranh làm tôi ấn tượng có tên là “Chùa Zōjō-ji ở Shiba” (芝増上寺, Shiba Zojoji) là một trong những kiệt tác nổi tiếng nhất của họa sĩ Kawase Hasui. Bức tranh mô tả một ngày trong cơn gió tuyết, một người phụ nữ đơn độc liêu xiêu cúi mình nép mình dưới một chiếc ô, nổi bật lên choán hầu hết diện tích bức tranh là chiếc cổng gỗ khổng lồ màu đỏ tươi. Tương phản với màu đỏ của chiếc cổng là những bông tuyết trắng bay đầy trời, phủ trên mái cổng, bám trĩu nặng trên cành cây, phủ đầy mặt đất. Bức tranh là một bài ca tuyệt đẹp của trường phái Tân bản họa của Ukiyo-e.

Con đường mới của nghệ thuật Ukiyo-e
Một số tác giả khi viết về nghệ thuật Ukiyo-e đã quá khái quát khi vạch một đường để phân biệt rạch ròi giữa Ukiyo-e và nghệ thuật hội họa phương Tây. Nghệ thuật Ukiyo-e không phải là một nghệ thuật chết. Trong suốt lịch sử kể từ khi ra đời, Ukiyo-e không ngừng phát triển. Nó đã gây ảnh hưởng lên thế giới nghệ thuật của phương Tây và ngược lại nó cũng hấp thụ những kỹ thuật của phương Tây để hoàn thiện hơn.
Nghệ thuật tranh khắc gỗ ukiyo-e truyền thống bắt nguồn từ thế kỷ 17 (thời Edo) và phát triển mạnh mẽ. Đến đầu thế kỷ 20, nghệ thuật này bị suy thoái dần do sự phát triển của nhiếp ảnh, kỹ thuật hội họa phương Tây, và những thay đổi trong thị hiếu thẩm mỹ của người dân Nhật Bản. Tưởng chừng nghệ thuật này không thể tồn tại được thì phong trào Tân bản họa đã xuất hiện.
Tân bản họa – Shin-hanga (新版画), nghĩa đen là “tranh in mới”, là một trào lưu nghệ thuật do Watanabe Shozaburo (1885-1962), người xuất bản và phát hành tranh mộc bản của Nhật Bản, đã khởi xướng vào khoảng năm 1910-1915 với mục đích chấn hưng và hiện đại hóa nghệ thuật khắc gỗ truyền thống. Họa sĩ Kawase Hasui tác giả của bức tranh nói trên là đại diện xuất sắc nhất của phong trào Tân bản họa.
Số phận dường như không định sẵn cho Kawase trở thành họa sĩ. Ông được sinh ra trong một gia đình thương nhân nên gánh trách nhiệm phải duy trì sự nghiệp của gia đình. Rất may cho nghệ thuật Ukiyo-e là sản nghiệp của gia đình ông đã phá sản. Chàng trai Kawase Bunjiro đã quyết định theo đuổi nghệ thuật. Ban đầu ông muốn theo học nghệ thuật truyền thống Ukiyo-e với họa sĩ Kiyokata Kaburagi nhưng vị họa sĩ này đã khuyên ông nên bắt đầu học kỹ thuật mầu nước, kỹ thuật hội họa phương Tây với với Okada Saburōsuke.
Sau khi đã thành thạo kỹ thuật màu nước hội họa phương Tây ông đã quay lại học tranh truyền thống Nhật (nihonga) với họa sĩ Kiyokata Kaburagi, và ông đã được thầy đặt cho biệt danh “Hasui” (nghĩa là “nước suối”). Cái tên Kawase Hasui đã vang danh từ đây.
Tân bản họa là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Những họa sĩ Tân bản họa như Kawase Hasui đã nhất quyết gìn giữ quy trình truyền thống. Khác với trào lưu sōsaku-hanga (“tranh sáng tạo”) nổi lên cùng thời kỳ, nơi mỗi họa sĩ thực hiện toàn bộ quá trình từ vẽ, khắc đến in, tân bản họa vẫn duy trì hệ thống hợp tác truyền thống gọi là hệ thống hanmoto với sự tham gia của bốn nhân tố chính: (1) Họa sĩ: Thiết kế và sáng tác tác phẩm; (2) Thợ khắc: Khắc những tấm gỗ theo thiết kế của họa sĩ; (3) Thợ in: Sử dụng các bản khắc để in lớp màu lên giấy và (4) Nhà xuất bản: Quản lý sản xuất và phân phối tác phẩm.
Điểm khác biệt là những họa sĩ như Kawase Hasui, vốn đã hấp thụ kỹ thuật phương Tây, sáng tạo nên những kỹ thuật mới từ thiết kế đến in để đưa vào các yếu tố như hiệu ứng ánh sáng (chiaroscuro), phối cảnh, cách chuyển màu tinh tế giữa bóng tối, ánh sáng và sự thể hiện tâm trạng cá nhân trong các tác phẩm.
Cánh cổng của giải thoát
Cái tên của công trình Sangedatsumon có nghĩa là Tam Giải Thoát Môn. Trong Phật giáo, “Tam Giải Thoát Môn” đề cập đến việc giải thoát khỏi ba phiền não trần tục chính: Tham, Sân, Si. Theo truyền thống Phật giáo Nhật Bản, những ai đi qua cổng Sangedatsumon sẽ được thanh tẩy khỏi ba phiền não này. Chùa Zōjō-ji là ngôi chùa trụ trì của tông phái Jōdo-shū (Tịnh Độ tông) ở khu vực Kant, được thành lập năm 1393. Ngôi chùa có mối quan hệ đặc biệt với dòng họ Tokugawa, những vị shogun cai trị Nhật Bản từ 1603 đến 1867, khi Tokugawa Ieyasu chọn nơi này làm đền thờ gia tộc và di dời nó đến vị trí hiện tại năm 1598.
Bức tranh được Hasui vẽ với bố cục rất phương Tây với nhiều lớp phân cảnh của bức tranh. Tiền cảnh là thân cây và những cành cây trĩu tuyết, trung cảnh là người phụ nữ đi liêu xiêu trong gió và hậu cảnh là cánh cổng khổng lồ màu đỏ. Tuy nhiên bức tranh cũng sử dụng những yếu tố của mỹ thuật truyền thống Nhật Bản như vẻ đẹp bất toàn, bất đối xứng của cành cây lệch sang một góc hay cánh cổng được bố trí lệch.

Điều đặc biệt trong bức tranh này là những kỹ thuật in rất tiến bộ của Ukiyo-e, những đóng góp cho nghệ thuật của Tân bản họa. Cảnh những bông tuyết bay đầy trời được Hasui ứng dụng của kỹ thuật goma-zuri (印刷点), một phương pháp in đặc biệt trong Tân bản họa. Goma nghĩa là ” hạt vừng”, ám chỉ những chấm nhỏ li ti. Zuri có nghĩa là “in ấn”, nên goma-zuri là kỹ thuật in các điểm chấm nhỏ giống như hạt vừng trên giấy.

Kỹ thuật này được tạo ra bởi việc khống chế lượng nước, mực và hồ dán, thường các bản khắc gỗ thiếu nước sẽ tạo ra các hiệu ứng tạo bề mặt rất hợp với việc mô phỏng các hiện tượng tự nhiên như tuyết rơi hoặc sương giá.

Ngoài kỹ thuật in hạt vừng, trong bức tranh này Hasui còn sử dụng kỹ thuật baren suji-zuri để thể hiện ánh sáng tán xạ đặc trưng của ngày tuyết, khi bầu trời u ám nhưng vẫn có độ sáng nhẹ phản chiếu từ lớp tuyết trắng và các bóng đổ dưới mái chùa.
Baren là dụng cụ để chà trong khắc gỗ, khi dung kỹ thuật này những người thợ cố tình để lại các dấu vân chà trên lớp mực, tạo hiệu ứng họa tiết, ánh sáng, và chiều sâu không gian đặc biệt mà chỉ khắc gỗ mới có được. Các nghệ nhân thường cố tình điều chỉnh lực và hướng chà để tạo ra nét sống động trong tranh

Baren – dụng cụ chà trong khắc gỗ.
Hasui muốn mang vào bức tranh này những sắc thái khác nhau của tuyết, của ánh sáng của bóng tối mà ông học được từ kỹ thuật hội họa phương Tây. Chính vì thế bức tranh này được in bởi 11 tấm gỗ khắc với 37 lần ấn khác nhau. Kỹ thuật in chồng nhiều lớp của nghệ thuật Ukiyo-e đã được Tân bản họa nâng lên một tầm cao mới.
Báu vật sống của Ukiyo-e
Phong trào Tân bản họa phát triển mạnh mẽ trước và cả sau chiến tranh thế giới thứ 2. Các họa sĩ của phong trào này áp dụng các kỹ thuật hiện đại nhưng hầu hết chủ đề của các bức tranh vẫn giữ nguyên bản sắc Nhật truyền thống:
– Tranh phong cảnh (Fukeiga): Những cảnh quan tự nhiên với ánh sáng nước ngoài, thời tiết, và các hiệu ứng khí quyển
– Tranh về những địa điểm nổi tiếng (Meishō): Các danh lam thắng cảnh của Nhật Bản
– Chân dung phụ nữ đẹp (Bijinga) Chân dung các diễn viên kabuki (Yakusha-e)
– Tranh trang trí Chim và hoa (Kachō-e)
Trong suốt cuộc đời sáng tác của mình Hasui đã sáng tác rất nhiều bức tranh phong cảnh và địa điểm, tuy nhiên có điều đặc biệt là ông thường chọn những khung cảnh rất bình dị và đời thường.
Bức tranh Chùa Zōjō-ji thuộc bộ tranh khắc gỗ Hai mươi phong cảnh Tokyo được xuất bản lần đầu vào năm 1925 bởi nhà xuất bản Watanabe Shozaburo không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là tài liệu lịch sử quý giá, ghi lại hình ảnh Tokyo thời đầu thế kỷ 20, trước khi nhiều di sản kiến trúc bị phá hủy trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đến năm 1953, chính phủ Nhật Bản đã ủy nhiệm Hasui tạo ra một bản in mới có tựa đề “Tuyết ở chùa Zōjō-ji” và chỉ định nó cùng với quy trình sản xuất là Kho báu Văn hóa Phi vật thể (Intangible Cultural Treasure). Đây là vinh dự nghệ thuật cao nhất trong Nhật Bản thời hậu chiến.
Năm 1956, chính phủ Nhật Bản đã vinh danh Kawase Hasui là báu vật Quốc gia Sống. Ông đã trở thành một trong những Họa sĩ hàng đầu của Tân bản họa và công nhận là Họa sĩ bậc thầy về tuyết, bóng đêm và ánh sáng.
Cùng ngắm một số bức tranh khác của ông.






Vui lòng dẫn nguồn cụ thể khi chia sẻ bài viết từ Artinsight. Khi sử dụng bài viết cho mục đích thương mại, liên hệ qua địa chỉ artinsight.vn@gmail.com.
Donate to Artinsght: Để Artinsight có thể xuất bản nội dung chất lượng, duy trì và phát triển bền vững, đóng góp nhiều giá trị, hãy donate cho chúng tôi tại đây: DONATE. Chân thành cảm ơn.
