Tác giả: Việt Hà
Ảnh chụp: Sơn Ca
Lời giới thiệu: Triển lãm các tác phẩm của vua Hàm Nghi, với tư cách là một nghệ sĩ, đã được tổ chức từ ngày 19.03.2022 đến ngày 28.08.2022 tại Musée départemental des Arts asiatiques (Bảo tàng Nghệ thuật Châu Á của vùng Alpes-Maritimes, tại thành phố Nice, miền Nam nước Pháp). Việt Hà và Sơn Ca đã có mặt tại triển lãm này năm 2022. Vì Artinsight được ra đời chậm 2 năm so với dự kiến nên đến nay tư liệu này mới có thể đến được với bạn đọc.
Toàn bộ hình ảnh chụp tại triển lãm được đăng tải tại đây: LINK
Trên trang web chính thức của bảo tàng, ta đọc được lời giới thiệu như sau:
“Triển lãm này lấy chủ đề là cuộc đời và các sáng tác nghệ thuật của Hàm Nghi (1871-1944). Hàm Nghi là vị Hoàng đế nước An Nam (Việt Nam) đã bị người Pháp đày đi Algérie vào năm 18 tuổi, và kể từ đó chưa từng trở lại quê hương.”
Phần giới thiệu này cung cấp cho khách ghé thăm triển lãm những thông tin cơ bản về nghệ sĩ: ông là ai? đã sáng tác nghệ thuật trong hoàn cảnh nào?, và dường như cũng đã khơi gợi một một câu hỏi quan trọng: ông đặt mình thế nào giữa nước Pháp và “quê hương”?
Trước khi đến triển lãm:

(phần trích từ website bảo tàng:
Hoàng đế Hàm Nghi, tên húy là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, sinh năm 1871 và lên ngôi vào ngày 2 tháng 8 năm 1884 ở tuổi 13. Vào thời điểm ông lên ngôi, nước Việt đang trải qua một cơn biến loạn cả bên trong lẫn bên ngoài. Trong nội bộ triều Nguyễn, vì vua Tự Đức không có con nối dõi nên đã nhận các con của anh mình làm con nuôi, trong đó có hai người anh của Hàm Nghi.
Triều đình khi đó chia làm hai phe: một phe thỏa hiệp, một phe chống đối sự hiện diện của người Pháp ở Việt Nam. Phe chống đối bao gồm phần lớn văn thân, lại có hai vị phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tham gia. Bên ngoài, người Pháp đã chiếm được phần lãnh thổ phía Nam và thiết lập chính quyền đô hộ tại Campuchia và Nam Kỳ trong thời kỳ 1858 đến 1867, sau đó tiếp tục mở rộng phạm vi bành trướng từ năm 1882: Bắc Kỳ và Trung Kỳ dần trở thành xứ bảo hộ, chiểu theo những điều khoản của Hòa ước Quý Mùi ký ngày 23 tháng 8 năm 1883.
Tháng 8 năm 1884, sau ba triều đại ngắn ngủi và những cái chết chóng vánh của những hoàng đế được chỉ định trước đó, các quan nhiếp chính đã chọn Hàm Nghi, dẫu ông vốn không phải là trữ quân. Lý do của lựa chọn này có lẽ là bởi Hàm Nghi còn nhỏ tuổi và có lẽ sẽ dễ bị điều khiển hơn anh trai Ưng Kỷ của ông (chính là Hoàng đế Đồng Khánh sau này).
Đêm ngày 4 đến sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885, Tôn Thất Thuyết, khi ấy là Thượng thư Bộ Binh đã lập mưu tấn công quân Pháp đang đóng tại kinh thành Huế. Đến rạng sáng, quân Pháp dành lại thế thượng phong, buộc triều đình tháo chạy. Vị phụ chính đại thành này sau đó đã phát động một phong trào yêu nước, lấy tên là “Cần Vương”, đồng thời đưa Hoàng đế Hàm Nghi lên vùng núi Trung Kỳ.
Sau ba năm truy bắt không thành, cuối cùng người Pháp cũng bắt được Hoàng đế khi ông bị cựu chỉ huy lính hộ vệ của mình phản bội. Nhà cầm quyền pháp quyết định đưa ông đi đày, nhằm chấm dứt phong trào phản kháng mà Hàm Nghi là ngọn cờ đầu. Địa điểm được lựa chọn khi đó là Alger thay vì chính quốc, để tránh sự chỉ trích của công luận Pháp đối với chính sách thuộc địa.
(hết trích dẫn)

Nhắc đến vua Hàm Nghi, hẳn người Việt Nam ai cũng từng nghe tới tên ông. Thuở bé, khi còn học lớp vỡ lòng và chưa đọc được sách sử, tôi đã nghe từ bà ngoại câu đồng dao: “Nước mô mà nước hai vua. Đồng Khánh ở giữa, Hàm Nghi hai đầu.” Gia đình họ ngoại tôi gốc ở Thanh Hóa, sau năm 1945 mới ra Bắc theo ông tôi lên Hà Nội công tác. Hàm Nghi là một trong những hoàng đế nhà Nguyễn đầu tiên mà tôi biết tên, mà ấn tượng từ câu đồng dao khiến đứa bé là tôi nhớ mãi không quên: trong tương quan so sánh với Đồng Khánh, có lẽ Hàm Nghi “oai phong” hơn hẳn. Sau này lớn lên, tôi biết đến sự kiện ở đồn Mang Cá năm 1885, đến các vị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Tôi học thuộc các dấu mốc lịch sử, vượt qua các bài kiểm tra và đinh ninh các vị danh nhân ấy đã thuộc về một phần của quá khứ không liên quan gì tới thực tại tôi đang sống. Cả sau này, khi làm nghiên cứu về Đông Dương thời Pháp thuộc, tôi cũng tránh đào sâu vào giai đoạn phong kiến nhà Nguyễn, một phần vì không liên quan trực tiếp đến đề tài, phần khác vì cảm giác không thoải mái, là một người Việt Nam, khi nhìn vào thời điểm chế độ thực dân đô hộ bắt đầu.
Hàm Nghi chỉ xuất hiện dưới một ánh sáng khác, khi đầu năm 2020, tôi biết được thông tin và đến dự hội thảo của cô Amadine Dabat tại khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cô Dabat là hậu duệ đời thứ 5 của vua Hàm Nghi, tác giả cuốn Hàm Nghi: empereur en exil, artiste à Alger (Sorbonne Université Presses, 2019) và là giám tuyển của triển lãm. Là một người nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, cô Dabat tập trung khai thác các giai đoạn trong cuộc đời Hàm Nghi, các mối quan hệ đưa ông đến với thế giới nghệ thuật Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỳ 20, đồng thời cung cấp nhiều thông tin quý giá từ chính gia đình cựu hoàng.
Là một người quen nhìn nhận nghệ thuật từ góc độ thực hành, tôi quan tâm tới thực tế các tác phẩm của Hàm Nghi hơn là những gì người ta có thể nói về chúng. Sẽ rất khó để đánh giá về tác phẩm của một nghệ sĩ, nếu chỉ được tiếp cận qua ảnh chụp hay những lời mô tả lại. Càng khó để hài lòng với cách tiếp cận gián tiếp ấy nếu muốn hiểu về Hàm Nghi như là một người sáng tác nghệ thuật, một người cùng nghề thay vì đơn thuần hoan nghênh ông như một trường hợp hiếm lạ trong sáng tác nghệ thuật Việt Nam. Hàm Nghi đã vẽ như thế nào, đã điêu khắc như thế nào? Ông đã thực sự trở thành một nghệ sĩ, hay nghệ thuật chỉ là một thú tiêu khiển, là hoạt động duy nhất ông được phép làm trong thời gian bị lưu đày tại Algérie? Thật may là hai năm sau, cô Dabat và Musée départemental des Arts asiatiques đã giải đáp được phần nào những thắc mắc khi đó của tôi, và tôi, vào ngày thứ sáu cuối cùng mà triển lãm còn mở cửa, đã cùng một người đồng nghiệp yêu Việt Nam và có kinh nghiệm sáng tác hội họa nói chung tới chiêm ngưỡng tận mắt các tác phẩm nghệ thuật của vị vua yêu nước một thời.

(trích từ website bảo tàng:
“Những tác phẩm này […] chính là một phần quan trọng của cuộc đời tôi. Trên những bức vẽ ấy có thể đọc ra lớp lớp tuần hoàn những sầu muộn, những sướng vui với trăm nghìn sắc thái. Thêm một bức vẽ là lại thêm một lần tôi trải nỗi lòng, là nguồn cảm hứng, là động viên, là an ủi.” – bản nháp thư Hàm Nghi gửi đến ông de Gondrecourt, ngày 1/1/1897. Phông Hàm Nghi BHN 4.14
(hết trích dẫn)
Vài nét về cấu trúc triển lãm:
Cấu trúc triển lãm có thể tạm chia làm ba phần: lịch sử (các thông tin tiểu sử cơ bản, các sự kiện chính trị quan trọng trong cuộc đời Hàm Nghi), tác phẩm hội họa, tác phẩm điêu khắc và đa phương tiện.
Ở phần thứ nhất, gian trưng bày giới thiệu các đồ dùng sinh hoạt trong cung vua (mang tính tượng trưng), một bức tranh tự họa, được vẽ lại từ ảnh bán diện của cựu hoàng được chụp trong giai đoạn 1889-1891 (tranh ký tên 春子 hay “Tử Xuân” ảnh trên website: “Hàm Nghi (1871-1944), Autoportrait, Algérie, 24 juillet 1896, mine de plomb sur papier, 54,5 x 43,5 centimètres. Collection particulière.”) hay đặc biệt còn có một chiếc bát sứ xanh họa tiết tứ bình: “Ngày 15 tháng 1 năm 1944, thi thể của Hàm Nghi được quàn tại phòng khách trong tư dinh của ông tại El Biar. Người quá cố mặc một chiếc áo dài lụa xanh lam thêu hoa màu hồng nhạt, khuôn mặt phủ một chiếc khăn lụa vuông màu trắng, tay được bọc vải trắng. Trong bát đựng đầy hoa mimosa, loài hoa có màu vàng tương tự màu vàng tượng trưng cho hoàng gia. Bát hoa được đặt cạnh đầu ông. Hàm Nghi được chôn cất trong vườn nhà, trên một vách đá nhìn xuống thành phố Alger.
Cũng ở trong phần không gian này, ta còn thấy một bức ảnh khác của Hàm Nghi thời trẻ (ảnh chụp năm 1896: cựu hoàng ngồi, tay đặt lên đầu gối, thân mặc áo the khăn xếp, mắt không nhìn thẳng vào máy ảnh – chú thích ảnh: “Năm 1889, Hàm Nghi bị buộc ngồi mẫu cho Jean Théophile Geiser (1848-1923) chụp ảnh tại Alger. Nhà cầm quyền Pháp muốn có ảnh chụp của ông để tuyên truyền và lấy làm bằng chứng cho việc ông đã bị bắt. Ngay trong những năm đầu đi đày ở Alger, toàn quyền Algérie đã cấp cho ông một chiếc máy ảnh. Hàm Nghi học nhiếp ảnh và tự mình rửa phim. Các thư từ và các bức ảnh còn giữ lại được cho thấy ông rất hứng thú với nghề nghiếp ảnh.”).

Trong số các vật dụng Hàm Nghi được phép mang theo từ quê hương, triển lãm cho ta một số đồng vàng và bạc Thánh Tổ và Hiến Tổ (dưới thời Minh Mạng và Thiệu Trị): “Trong chuyến lưu đày, Hàm Nghi mang theo khoảng năm mươi đồng vàng lấy từ Ngân khố Quốc gia. Ngân khố này trước đây Hoàng đế được sử dụng một phần và được chia cho các vương tử thuộc hoàng tộc dùng làm việc riêng. Ở Alger, ông vẫn duy trì truyền thống này qua việc tặng huân chương cho người thân trong gia đình hoặc cho các nhân vật chính trị nhằm thể hiện lòng biết ơn hoặc tình bằng hữu, giống như đối với Toàn quyền Algérie thời đó là Louis Tirman (1837-1899) hay đối với nữ nhà thơ Judith Gauthier (1845-1917).
Bên cạnh đó, một số giấy tờ hành chính (giấy căn cước với danh xưng “Prince d’Annam” (Vương tử xứ An Nam)) hay thư từ của ông với các nhân vật chính trị thời ấy, hoặc với các vị Hoàng đế sau này (Khải Định, Bảo Đại) cũng được trưng bày tại đây. Một trong số ít người Việt (hoặc có thể nói là duy nhất) đã tiếp xúc với cựu hoàng trong thời gian này chính là Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875-1929) khi đó đang là học sinh trung học tại Alger. Bức tranh Kỳ Đồng vẽ cuộc tấn công ở kinh thành Huế dưới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết cũng được trưng bày trong phần không gian đầu tiên của triển lãm.
Cần phải nói thêm, thời gian đầu Hàm Nghi hoàn toàn khước từ việc học tiếng Pháp và nhất cử nhất động của ông đều được giám sát nghiêm ngặt. Về sau, Hàm Nghi quen dần với ngôn ngữ và văn hóa này, nhưng từ ngày đầu cho đến cuối đời, ông không bao giờ nói về những gì đã trải qua khi còn ở Việt Nam.

Ở phần thứ hai: các tác phẩm hội họa đã thể hiện rất rõ quá trình học tập và sáng tác của Hàm Nghi dưới sự ảnh hưởng của mỹ thuật phương Tây.
(trích website bảo tàng:
Trong những năm đầu đi đày, người Pháp buộc ông phải học tiếng Pháp, học vẽ tranh, nhằm biến ông trở thành người thân Pháp, chuẩn bị cho trường hợp ông được đưa trở lại làm Hoàng đế An Nam. Ông cũng được nhận một khoản trợ cấp trích ra từ ngân quỹ chung dành cho Đông Dương. Do nhà cầm quyền luôn coi ông là thủ lĩnh của phong trào chống thực dân nên mọi thư từ của ông đều bị theo dõi, và mọi liên lạc với Đông Đương đều bị cấm.
Ông hay giao thiệp với tầng lớp thượng lưu người Pháp sống tại Alger và các thanh nhiên Việt Nam là người Nam Kỳ đang theo học tại trường trung học của thành phố. Dần dà, ông được phép gửi và nhận thư, thực phẩm và đồ dùng từ Đông Dương. Trong thư ông, ta đọc được sự chật vật khi phải giao tiếp bằng tiếng Pháp trong thời gian dài. Ông dần quên mặt Hán tự, và không thành thực chữ quốc ngữ – cách ký âm latin đã trở thành chữ viết chính thức tại Việt Nam từ giai đoạn đầu thế kỷ 20.
Là một tù nhân chính trị và bị giới hạn phạm vi di chuyển, Hàm Nghi tìm thấy trong nghệ thuật không gian của sự tự do nhưng vẫn kín đáo và mang tính cá nhân. Ông trở thành học sinh của Marius Reynaud (1860-1935), một họa sĩ Pháp theo trường phái Á Đông, sinh ra ở Marseille và đã sống ở Algérie từ mười năm nay. Reynaud dạy cựu hoàng hội họa kiểu hàm lâm trong xưởng vẽ (tranh chân dung, tranh khỏa thân, tranh tĩnh vật) và dẫn ông đi vẽ phong cảnh ở các vùng lân cận Alger.
Từ mùa xuân năm 1904, Hàm Nghi sử dụng các gam màu gần giống với những gam màu thường thấy trong bảng màu của Paul Gauguin (1848-1903) sau khi lần đầu được làm quen với các tác phẩm của họa sĩ này vào Salon d’Automne năm 1903. Tuy nhiên, cách thể hiện của ông lại ghi nhận ảnh hưởng lớn từ trường phái Ấn tượng, đặc biệt rõ rệt qua việc ghi lại các hiệu ứng của ánh sáng trên tranh. Ông học hỏi nhiều ở Claude Monet (1840-1926) cách ghi lại sự biến đổi của ánh sáng trong cùng một bối cảnh. Khi đến Pháp vào mùa hè, ông mang theo họa cụ và vẽ phong cảnh Pháp theo cùng một cách như khi vẽ phong cảnh ở Algérie. Ông cũng quan tâm đến các trường phái nghệ thuật trước đó, nhưng chỉ ở khía cạnh kỹ thuật hội họa và bỏ qua tất cả các chủ đề chính trị hay xã hội mà các họa sĩ Pháp thường chú trọng.
Một thời gian sau khi kết hôn với Marcelle Lalöe, con gái của chánh án tòa án Alger, Hàm Nghi mua được một mảnh đất thuộc El Biar, rồi xây nên một ngôi nhà có phong cách neo-mauresque [một kiểu kiến trúc pha trộn giữa Tây Ba Nha và Hồi giáo]. Nơi đây ông dành thời gian cho gia đình (ba người con), sáng tác hội họa, làm mộc và điêu khắc trong xưởng đặt tại phần villa “Gia Long”.
Tuy được người thân hữu coi là một nghệ sĩ, Hàm Nghi lại không hề mong được công chúng biết đến. Khác xa với hình tượng nghệ sĩ khao khát danh vọng và sự tán dương của giới phê bình, Hàm Nghi ít khi ký tên và đánh dấu ngày tháng tác phẩm, cũng không gán tác phẩm của mình vào một khuynh hướng trào lưu nhất định nào, nhất là khi ông thường xuyên kết hợp các kỹ thuật Ấn tượng, Điểm họa và Nabis với nhau.
(hết trích dẫn)

Quả vậy, khi nhìn vào tranh của Hàm Nghi ở thời kỳ đầu, ta có thể nhận thấy rõ dấu ấn của Gauguin, hay sau đó là của phong cách Ấn tượng. Bức tranh được lấy để quảng bá cho triển lãm (Tranh không đề, Algérie, khoảng năm 1916, sơn dầu trên toan, 54 x 65 cm. Bộ sưu tập cá nhân) hay bức Falaise de Port-Blanc (St-Lunaire) (1912) là hai bức phong cảnh khoáng đạt, vừa có sự đối lập giữa màu xanh của mặt đất hay mặt biển và sắc trời hồng nhạt của buổi hoàng hôn, vừa có thấy sự uyển chuyển trong thay đổi các gam màu. Các bức tranh vẽ thực vật trong ánh chiều tà cũng có cách thể hiện đối lập tối-sáng gây hiệu quả thị giác cao, nhất là khi dùng chất liệu màu sáp (các bức Trois oliviers, Champs à El Biar, Villa à Mustapha). Khối cây đen-xanh sẫm được bao phủ bởi những quầng hồng, xao động như những tán lá cây rung rinh trong gió và ánh sáng cuối ngày, vừa thực vừa mơ. Một mô típ cũng xuất hiện khá nhiều trong tranh của Hàm Nghi của thời kỳ đầu là một cây to được đặt ở trung tâm. Gốc cây khỏe, tỏa ra những vòm lá um tùm – thân cây ấy gợi nên một cảm giác vừa vững chải yên ổn, lại vừa cô đơn. Cuối cùng, bức tranh Ba cây ô-liu còn có thể gợi nhắc cho người xem về đêm cuối cùng của Chúa Jesus ở Đồi Ô-liu (Đồi Cây dầu) trước khi bị Judas phản bội, hay hình tượng Chúa ba Ngôi. (Tuy nhiên, vì đây chỉ là nhận định của cá nhân mỗi người, và cũng không có thông tin nào khẳng định về đức tin của cựu hoàng, vậy nên nhận định này chỉ mang tính chất tham khảo).
Ở phần thứ ba: tượng điêu khắc, tượng thạch cao, các đồ mộc, nhiều ảnh chụp và phim quay trong gia đình vào giai đoạn cuối đời của cựu hoàng.
Trong giai đoạn này, Hàm Nghi vẫn tiếp tục vẽ tranh (nhiều bức chân dung ra đời) và dành nhiều thời gian cho điêu khắc. Cựu hoàng cũng nhiều lần ngồi mẫu để chụp ảnh, trong tư thế của một họa sĩ. Phong thái ông đã có phần thả lỏng hơn: ông vẫn chít khăn và mặc áo khuy Tàu, nhưng đã mặc quần âu. Có bức Hàm Nghi nhìn thẳng vào máy ảnh, miệng cười nhẹ.
(trích website bảo tàng:
Ở Alger, Hàm Nghi thường gặp gỡ họa sĩ theo trường phái Á Đông Rochegrosse (1859-1938) và nhà điêu khắc Léon Fourquet (1841-1939). Các chuyến đi tới Paris giúp ông làm quen được với các nghệ sĩ và trí thức thời đó.
Năm 1899, Hàm Nghi gặp Auguste Rodin (1840-1917). Sau đó, cứ hai năm một lần, cựu hoàng ghé xưởng của Rodin ở Paris, tại rue de l’Université. Ở đây ông được học cách làm khuôn, nung chảy, xử lý bề mặt, kỹ thuật phóng to. Hai người giữ liên lạc qua thư trong giai đoạn 1899-1910.
Năm 1900, một nữ nhà văn, họa sĩ và nhà điêu khắc là Judith Gautier (1845-1917), con gái lớn của văn hào Théophile Gautier, đã gặp Hàm Nghi. Bà rất yêu quý ông, và tình cảm này sớm phát triển thành một tình bạn bền chắc cũng như trở thành xúc tác nghệ thuật cho cả hai bên. Trong những lần được mời tới nhà bà ở Dinard, “vương tử xứ An Nam” đã vẽ nhiều bức tranh cảnh biển; bà thì viết tặng ông nhiều bài thơ. Trong các bức thư, hai người trao đổi nhiều về nghệ thuật và văn học. Là một nhà Hán học thức thời, Judith Gautier đã trở thành cây cầu nối về phương Đông đối với Hàm Nghi.
Năm 1904, Hàm Nghi đã triển lãm một số lượng nhỏ các tác phẩm vẽ bằng sáp màu ở Bảo tàng Guimet, Paris. Là một họa sĩ yêu thích vẻ đẹp thiên nhiên và các hiệu ứng ánh sáng, ông đã khai phá phong cách Ấn tượng bằng chất liệu mới khám phá được vào mùa xuân cùng năm này. Từ ngày 15 đến 27 tháng 11 năm 1926, một triển lãm tập hợp các tác phẩm sáp màu, tranh và điêu khắc của ông được tổ chứ tại Galerie Mantelet – Colette Weil, Paris. Mặc dù các tác phẩm của ông không hề biểu lộ một yếu tố châu Á rõ ràng nào, Hàm Nghi vẫn được người Pháp coi là một người Á Đông. Tên ông, ngoại hình, phục sức đều nói lên điều ấy. Các triển lãm của cựu hoàng được báo giới thời ấy đón nhận, song cuộc sống lưu đày ở Alger, dầu sao, cũng đã là một cản trở khiến cho nghệ thuật của ông không được thừa nhận một cách xứng đáng.)
(hết trích dẫn)

Ở phần này của triển lãm, người xem được chiêm ngưỡng nhiều tác phẩm điêu khắc của Hàm Nghi, dưới sự hướng dẫn của bậc thầy Rodin. Một tác phẩm đặc biệt gây hiếu kỳ, chính là bức tượng thạch cao tạc lại bàn tay của nghệ sĩ. Tượng có kích thước 25 x 18 x 6 cm, nằm ngang, ngón tay giữa và ngón áp út dính vào nhau, các đường nét đều được thể hiện với độ chính xác cao, đặc biệt sống động. Tác phẩm được sáng tác năm Hàm Nghi 44 tuổi, không rõ là ông thực hiện hoàn toàn hay có phụ tá trợ giúp. Trong gian cuối của triển lãm này, sự hòa trộn của các loại hình nghệ thuật, cùng sự có mặt của các thành viên trong gia đình (qua tranh vẽ, điêu khắc, ảnh chụp) đã thổi thêm một luồng sinh khí mới cho triển lãm. Giống như phần lớn các triển lãm hồi niệm, người xem đã được dõi theo Hàm Nghi từ khi ông mới chỉ là một thanh niên cho đến khi ông đi đến chặng cuối cuộc đời mình. Tuy nhiên, không một tài liệu nào có thể cho biết những diễn biến nội tâm ông trong suốt năm mươi lăm năm, sống trong sự kiểm soát, không được nói tiếng nói của quê hương mình. Chỉ có tranh, tượng, ảnh, đồ gỗ mà đôi tay ông đã chạm vào, đã kiến tạo nên. Nghệ thuật khi đó, như trong bản nháp bức thư đã được trích ở đầu bài viết, đã trở thành không gian và phương tiện cho ông giãi bày nổi lòng. Nghệ thuật và nghệ sĩ đã trở thành một – trung thực bày ra cho mọi con mắt khen chê.
Dư âm:
Cô Dabat kể với tôi, trong thời kỳ đầu bị lưu đày, những người hầu nghe tiếng ông khóc hàng đêm. Rồi dần dần khi đã quen với cuộc sống ở Alger, ông viết thư hỏi thăm tình hình gia quyến, xin được nhận thực phẩm và trà từ cố quốc, nhưng không một lần nào hỏi về tình trạng quốc gia. Ngay cả người thân trong gia đình, khi cựu hoàng qua đời, cũng phải nhiều năm sau mới biết tên khai sinh của ông: Nguyễn Phúc Ưng Lịch. Vị Hoàng đế đã mất đi ngôi báu, mất cả cái tên mình để nhận cái danh hiệu “Prince d’Annam”, nhưng vẫn giữ cách phục sức Việt Nam, vẽ tranh, tạc tượng, dựng villa Gia Long cho con trẻ trong nhà. Hàm Nghi chính là họa sĩ Việt Nam đầu tiên được đào tạo theo mỹ thuật phương Tây, trước cả những lớp họa sĩ Việt Nam đầu tiên của trường Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng bên cạnh cái danh xưng “đầu tiên” ấy, có lẽ nên đánh giá Hàm Nghi như một trường hợp đặc biệt, giữa những xô đẩy của lịch sử, trong cuộc biến loạn đã làm thay đổi mãi mãi lịch sử của một quốc gia, ông đã tìm thấy nghệ thuật, và nghệ thuật cũng đã tìm thấy một người nghệ sĩ.
Cô Dabat cũng nói với tôi về dự án hợp tác sắp tới của cô với bảo tàng thành phố Huế. Hy vọng rằng dự án này sẽ mang Hàm Nghi và các tác phẩm nghệ thuật của ông về gần hơn với người Việt Nam. Triển lãm tại Musée départemental des Arts asiatiques, với sự hợp tác của nhiều bảo tàng lớn tại Pháp (musée Guimet, musée Cernuschi, musée Rodin) cũng mới chỉ giới thiệu được một phần nhỏ (55 tác phẩm và 150 đồ vật, vật dụng, tài liệu) liên quan đến cuộc đời của Hàm Nghi nói chung và các sáng tác nghệ thuật của ông nói riêng. Catalogue của triển lãm, bao gồm các bài viết, hình ảnh cũng mới chỉ có ấn bản tiếng Pháp.
Dẫu trăm nghe không bằng một thấy, bài viết này hy vọng đã đem đến cho độc giả một góc nhìn khái quát về một triển lãm rất đặc biệt trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
– Website bảo tàng Musée départemental des Arts asiatiques
– Dabat, Amandine, Bossard, Adrien. Hàm Nghi, Prince d’Annam (1871-1944): l’art en exil. Cinisello Balsamo Milano, France: Silvana editoriale, 2022.
Xin cảm ơn cô Amandine Dabat, ông Adrien Bossard (giám đốc Musée départemental des Arts asiatiques) và Delphine vì những trao đổi hữu ích và quý giá, vào thời điểm mà tôi chỉ quan tâm tới triển lãm vì thuần túy hiếu kỳ cá nhân, chứ không nhằm mục đích khai thác thông tin cho bài viết này.
Vui lòng dẫn nguồn cụ thể khi chia sẻ bài viết từ Artinsight. Khi sử dụng bài viết cho mục đích thương mại, liên hệ qua địa chỉ artinsight.vn@gmail.com.
Donate to Artinsght: Để Artinsight có thể xuất bản nội dung chất lượng, duy trì và phát triển bền vững, đóng góp nhiều giá trị, hãy donate cho chúng tôi tại đây: DONATE. Chân thành cảm ơn.
